Phát biểu cảm nghĩ về ca dao dân ca Những câu hát than thân – Văn mẫu hay lớp 7

Từ một số bài ca dao than thân đã học hoặc đã đọc, hãy phát biểu cảm nghĩ của anh (chị) về số phận người phụ nữ trong xã hội cũ ­- Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Nam

Ca dao là tiếng hát cất lên từ cõi lòng những người bình dân. Trong đó, có không ít những câu ca thể hiện nỗi lòng của những người phụ nữ. Họ là những người bị coi thường trong chế độ xã hội phụ quyền với tư tưởng”trọng nam khinh nữ”. Qua những bài ca dao than thân về thân phận những người phụ nữ trong xã hội cũ, phần nào tôi hiểu được nỗi đau khổ mà họ phải chịu đựng.

Loading...

Trong xã hội ấy, họ bị tước đi những quyền lợi cơ bản của con người. Họ bị biến thành nô lệ cho những luật lệ, những ràng buộc nghiêm khắc của lễ giáo phong kiến và những quan niệm cổ hủ lạc hậu. Họ không có quyền quyết định số phận mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác bởi quy định “tam tòng” quá nghiêm khắc của Nho giáo “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà theo bố mẹ, lấy chồng nghe lời chồng, chồng chết phụ thuộc con). Điều giàng buộc ấy dẫn theo bao nhiêu bất hạnh của người phụ nữ, vì thế họ cất lên tiếng hát thân thở về thân phận bị động của mình:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào giếng ngọc, hạt ra ruộng cày

Thân em như giếng giữa đàng

Người không rửa mặt, người phàm rửa chân

Họ so sánh “Thân em…” với rất nhiều thứ, thể hiện nhiều bình diện khác nhau song vẫn có một điểm chung là: khẳng định giá trị của bản thân và than về số phận phụ thuộc của mình. Dù là “tấm lụa đào” quý giá hay”giếng giữa đàng” mát trong thì họ vẫn không biết tương lai như thế nào. Những hình ảnh so sánh ấy làm nổi bật thân phận bơ vơ, bất trắc của họ. Họ không thể tự quyết định số phận của mình. May mắn thì được chỗ yên lành hạnh phúc, bất hạnh thì bị rơi vào chốn lao đao và dù trong hoàn cảnh nào họ cũng phải chấp nhận bởi thân "cá chậu chim lồng"

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thủa nào ra

Vì phụ thuộc nên học phải lấy chồng khi còn ít tuổi, người phụ nữ là nạn nhân đau khổ nhất của nạn tảo hôn:

Bướm vàng đậu đọt mù u

Lấy chồng càng sớm, lời ru càng buồn

Đọt mù u non nớt đã bị bướm vàng đến đậu và quấy phá. Cũng như người phụ nữ, càng làm vợ sớm thì càng khổ nhiều. Họ gửi nỗi buồn vào lời ru bởi không thể tâm sự cùng ai. Những cô gái bị ép gả khi còn tuổi niên thiếu đã dẫn đến những bi kịch số phận, đã có những câu ca dao tự trào đầy cay đắng xót xa:

Lấy chồng từ thủa mười ba

Đến nay mười tám thiếp đà năm con

hay:

Ra đường thiếp hãy còn son

Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng

Vì nạn tảo hôn, vì những hủ tục lạc hậu ấy mà người con gái trong xã hội xuă không được hưởng tuổi thanh xuân. Chưa kịp lớn, chưa kịp hiểu cuộc đời thì họ đã phải gắn cuộc đời mình với con thơ, phải chịu cảnh làm dâu trăm chiều cay đắng. Bao nhiêu gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai gầy guộc của người phụ nữ.

Vì nạn tảo hôn, vì những hủ tục lạc hậu ấy mà người con gái trong xã hội xuă không được hưởng tuổi thanh xuân. Chưa kịp lớn, chưa kịp hiểu cuộc đời thì họ đã phải gắn cuộc đời mình với con thơ, phải chịu cảnh làm dâu trăm chiều cay đắng. Bao nhiêu gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai gầy guộc của người phụ nữ.

Quá nhiều bất trắc đón đợi người phụ nữ trên con đường đời, vì thế họ luôn mang trong mình những nỗi lo âu, khắc khoải. Số phận bấp bênh, hạnh phúc mong manh quá đỗi. Có được người yêu thương chân thành đã khó, giữ được người ấy và được sống chung lại càng khó hơn bởi họ đâu có quyền tự lựa chọn hạnh phúc cho mình. Quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã tước đi của người con gái quyền được tự lựa chọn hạnh phúc cho mình. Bao nhiêu bất trắc, âu lo về số phận được gửi trong những câu ca dao đầy tâm sự:

Hòn đá đóng rong vì hòn nước chảy

Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa

Em thương anh không dám nói ra

Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời

Em với anh cũng muốn kết đôi

Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan

Bao nhiêu giàng buộc, bao nhiêu bất trắc trút lên vai cô gái để cô phải mang trong lòng mình những nỗi lo âu. Thân phận yếu đuối của người phụ nữ trong xã hội xưa đã được thể hiện trong rất nhiều câu ca dao ca dao như thế. Thân phận con cò, con vạc lầm lũi, gầy guộc, vất vả kiếm sống, số phận lênh đênh đã trở thành một biểu tượng quen thuộc trong dân ca ca dao để chỉ người phụ nữ. Điều đó cho ta thấy, trong xã hội cũ, khi con người chưa có sự bình đẳng giới thì người phụ nữ phải chịu thiệt thòi như thế nào.

Ngày nay, xã hội đã tiến bộ, nam nữ đã bình quyền, người phụ nữ đã được sống hạnh phúc hơn. Mặc dù không thể có sự bình đẳng tuyệt đối, nhưng người phụ nữ ngày nay đã được xã hội quan tâm đúng mực. Họ đã được phát huy hết khả năng của mình, được chủ động quyết định số phận của mình. Tuy đây đó còn nhiều bất công, người phụ nữ còn chịu thiệt thòi, song so với người phụ nữ thời xưa thì xã hội đã tiến một bước rất dài. Chúng ta sẽ loại bỏ dần những quan niệm lạc hậu, không phù hợp để người phụ nữ được quyền sống hạnh phúc, để những lời ca dao than thân được thay thế bằng những khúc ca vui. 

Phát biểu cảm nghĩ về những câu hoặc bài ca dao than thân nói về thân phận nghèo khổ trong xã hôi thời phong kiến? – Bài làm 2

Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

1. Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?

2. Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn đ ợc mấy phải nằm nhả tơ . Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thưng thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

3. Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thuong cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần…). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay… Thân em như … và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ.

Câu 1: Trong ca dao xa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nớc. Cò gần gi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:

Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm li kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời.

Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu;

Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn cho gầy cò con ?

Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào bước đường cùng?!

Cao hơn ý nghĩa một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì su cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị.

Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:

Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ . Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kều ra máu có người nào nghe.

Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.

Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khó. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là th ng cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí nào soi tỏ.

Bốn câu ca dao – bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những nỗi thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm.

Trong ca dao, người xa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,…) bởi cho rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi thương tâm gây xúc động thấm thía.

Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để cho con người lấy tơ dệt thành lụa, lanh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm bé nhỏ kia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấyỊ người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng có. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng nh không thể tìm ra lối thoát.

Câu hát: Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn su. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, nhớ hạc lánh đường mây, nhớ chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?

Câu hát cuối: Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý.

Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay… Thương thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thưong thân, thương phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.

Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sông nước miền Nam.

Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.

Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muôn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.

Tóm lại, cả ba bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung than thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo khổ xa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, tương lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ châm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của ảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thống trị kéo dài bao thế kỉ.

Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cơ cực đã lùi vào dĩ vãng. Tuy vậy, đọc những bài ca dao trên, chúng ta càng hiểu, càng thương hơn ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đói nghèo trong rơm rạ của một quá khứ chưa xa.

Phát biểu cảm nghĩ của mình vê những câu hoặc bài ca dao than thân nói vê thân phận nghèo khổ trong xa hội thời phong kiến – Bài làm 3

Ca dao Việt Nam là kho tàng văn học vô giá, ngoài nội dung thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình… ca dao Việt Nam còn bộc lộ niềm đồng cảm sâu sắc với số phận bất hạnh của người nông dân trong xã hội phong kiến. Qua những bài ca dao đó, chúng ta cảm nhận được sự thống khổ mà người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ phải gánh chịu, đồng thời còn cảm nhận được sự tố cáo của người dân về chế độ thối nát tàn bạo, coi thường mạng sống của dân.

Người nông dân là những người chịu nhiều thiệt thòi nhất trong các tầng lớp xã hội. Họ chỉ biết lam lũ một nắng hai sương, làm việc quần quật suốt ngày không ngừng ngỉ, thân phận người nông dân hèn mọn, bé nhỏ biết bao, như thân cái cò, cái kiến, con rùa, con hạc… 

“Nước non lận đận một mình 

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay”. 

Con cò trong câu ca dao mang hình ảnh của người nông dân cô đơn, cùng cực. Cuộc đời vất vả của con cò được diễn tả bằng hình ảnh đối lập: một mình lận đận giữa nước non, lên thác xuống ghềnh, vượt qua những nơi khó khăn, nguy hiểm. một mình thân cò bé nhỏ mà phải đương đầu với những khó khăn quá lớn. Việc vất vả đó kéo dài: “bấy nay” chứ không phải một ngày hai ngày. Những hình ảnh đối lập, những nơi nguy hiểm, những ao, thác, ghềnh, biển cho thấy con cò đã phải trải nhiều nơi chốn, nhiều cảnh huống, chỉ một mình nó thui thủi, vất vả đến mức gầy mòn. Cuộc đời lân đận được diễn tả khá sinh động, ấn tượng. 

Người nông dân trong xã hội lúc bây giờ đều có chun một số phận, quả là trăm người trăm cảnh. Bên cạnh những thân phận cái cò, cái vạc còn có những cái kiến, con rùa, con hạc… 

– “Thương thay thân phận con rùa 

Xuống sông đội đá lên chùa đội bia”. 

– “Thương thay thân phận con tằm 

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ

Thương thay lũ kiến li ti 

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi 

Thương thay hạc lánh đường mây 

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi 

Thương thay con cuốc giữa trời 

Dầu kêu ra máu có người nào nghe”. 

Mọi loại vật được ví von đều chung một nỗi khổ và đều cần phải được đồng cảm, thương xót. Có một nhóm bài ca dao bắt đầu bằng cụm từ “Thương thay”. Mỗi lần “thương thay” là nhắc đến một con vật với một cảnh ngộ khác nhau nhưng lại cùng chung thân phận người nông dân vất vả, lam lũ. Điều đó tô đậm nỗi thương cảm, xót xa cho cuộc sống khổ sở nhiều bề của người lao động. Những nỗi thương thân của người nông dân thể hiện qua các hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Thương con rùa “xuống thương sông đội đá lên chùa đội bia” là thương người nông dân với cuộc đời luẩn quẩn của thân phận tôi đòi. Thương con tằm là thương cho thân phận bị bòn rút sức lực phục vụ kẻ khác. Thương lũ kiến tí ti là thương cho thân phận bé nhỏ suốt đời phải làm lụng kiếm miếng ăn. Thương cho con hạc là thương cho cuộc đời phiêu bạt, khốn khó, mỏi mệt không có tương lai (biết ngày nào thôi). Thương cho con cuốc là thương thân phận thấp bé, dù có than thở đến kiệt sức thì cũng không có người động lòng, thương xót… Nỗi thương xót như muốn kéo dài triền miên qua hình ảnh của những con vật bé nhỏ, tội nghiệp. Mỗi con vật, mỗi nỗi khổ, mỗi cảnh ngộ đáng thương khác nhau làm nên nỗi khổ nhiều bề của thân phận người lao động. 

Trên đây với chỉ là số ít trong số những bài ca dao viết về người nông dân, người nông dân đã phải chịu muôn vàn nỗi khổ. Càng thương xót cho những người đồng bào lao khổ của mình, ta càng căm giận những thế lực đen tối chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của họ. Vì vậy, không chỉ than thân cho những người nông dân trong xã hội phong kiến, ca dao còn gợi niềm căm tức đối với xã hội đầy rẫy bất công đó: 

“Ai làm cho bể kia đầy, 

Cho ao kia cạn cho gầy cò con?” 

Sử dụng đại từ phiếm chỉ “Ai”, bài ca dao đã hướng mũi tên công kích đến xã hội phong kiến suy tàn đã đày đọa thân phận bé nhỏ của những người nông dân. Xã hội đó đã làm nên chuyện bể dầy, ao cạn, cho cuộc đời biến đổi bể dâu khiến thân cò thêm lận đận, thêm gầy mòn. Câu hỏi tu từ đã gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến bất công đó. 

Yêu thương và căm hờn là hai dòng cảm xúc khôn nguôi khi đọc những bài ca dao viết về thân phận người nông dân trong xã hội phong kiến. Đọc ca dao để cảm xúc của mỗi chúng ta được sống với tấm lòng của ông cha ta từ ngàn năm trước. Đọc ca dao để mỗi chúng ta biết sống có ích cho ngày hôm nay.

Ca dao tục ngữ Việt Nam thật phong phú và đa dạng, phản ánh mọi mặt trong đời sống của con người. Ca dao đã góp phần phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân và lên án cái xã hội thối nát đó đã đẩy con người xuống tận cùng của xã hội, một xã hội phải được loại bỏ.

Cảm nhận về những câu hát than thân – Bài làm 4

Ca dao dân ca – suối nguồn yêu thương ngọt ngào như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam qua bao thế hệ không chỉ nói đến tình cảm yêu thương quê hương đất nước mà còn thể hiện sâu sắc nỗi đau thân phận của người dân lao động trong xã hội phong kiến. Đặc biệt, nỗi đau đớn, tủi nhục của người phụ nữ đã được khắc họa rõ nét thông qua chùm ca dao bắt đầu bằng mô típ “Thân em”. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu nét đặc sắc của ba bài ca dao dưới đây:

– Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

– Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi, nếm thử mà xem!

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

– Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

Có thể nói đây là ba bài ca dao điển hình cho chùm ca dao than thân của người phụ nữ. Ba bài có những nét giống nhau và những nét riêng hết sức đặc sắc.

Để thấy được nét tương đồng của ba bài ca dao, ta cần phải đặt nó vào trong cả một hệ thống. Cả ba bài đều nằm trong chùm ca dao than thân, đó là điểm giống nhau dễ nhận ra nhất. Cả ba bài đều sử dụng một lối mở đầu quen thuộc là “Thân em” để nói lên sô phận bấp bênh, vô định của người phụ nữ trong xã hội xưa. Ba bài ca dao đều thể hiện nỗi đau thân phận của người phụ nữ khi bị phụ thuộc vào kẻ khác, không có quyền quyết định số phận của mình. Tuy ý thức rõ giá trị của bản thân (từ “ruột trong thì trắng”, thơm, “ngọt bùi” của củ ấu gai đến vẻ đẹp xinh tươi, rạng ngời của “tấm lụa đào” và sự mát lành của “giếng giữa đàng”) nhưng người phụ nữ không khỏi ngậm ngùi trước sự bé nhỏ, bị coi thường của mình.

Ca dao dân ca là sáng tạo của tập thể nhưng bên cạnh cái chung hay sự tương đồng gần gũi thì mỗi bài lại có nét riêng đặc sắc. Ba bài ca dao tuy đều bắt đầu bằng “Thân em” nhưng mỗi bài lại thể hiện những ý tình khác nhau:

Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Nhân vật trữ tình ở đây ý thức được vẻ đẹp của mình: “lụa đào” là loại lụa có màu sắc đẹp, sang trọng, quý phái. Nhưng ngay trong sự tự ý thức về giá trị đó cũng hàm chứa nỗi lo lắng cho số phận của mình. Lụa đẹp nếu vào tay người quân tử biết “thương hoa tiếc ngọc” thì sẽ được trân trọng, bền đẹp mãi còn nếu rơi vào tay kẻ phàm phu “vùi hoa dập liễu” thì tấm lụa sẽ không được nâng niu, gìn giữ và sớm muộn cũng sẽ trở thành vật vứt đi. Nỗi băn khoăn đó của người phụ nữ bắt nguồn từ quan niệm trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến xưa. Ta cũng bắt gặp nhiều câu ca dao có nội dung tương tự câu ca dao trên như:

Mình em. như cá giữa rào,

Kẻ chài người lưới biết vào tay ai?

Hình ảnh con cá vẫy vùng giữa sông nước thật thoải mái! Nó tự do trong “giang sơn” của riêng nó. Nhưng sô phận con cá lại do kẻ chài lưới định đoạt. Con cá hiểu điều đó nên lúc nào cũng nơm nớp lo sợ không biết sẽ bị mất tự do khi nào. Đau lòng thay!

Thân em như của ấu gai,

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi, nếm thử mà xem!

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

Nếu cô gái ở bài ca dao thứ nhất có phần tự hào về nhan sắc của mình thì cô gái trong bài ca dao thứ hai lại ý thức được những hạn chế về mặt hình thức của mình thông qua phép so sánh “Thân em như củ ấu gai”. Mặc dù củ ấu gai ăn rất ngọt, bùi, bên trong trắng ngần nhưng thường không được để ý. Đơn giản là bởi vẻ ngoài của nó không mấy ưa nhìn. Người đời không coi trọng củ ấu gai vì nó có vẻ ngoài xấu xí. Người con gái ở đây biết hình thức bên ngoài của mình không được hấp dẫn nhưng cũng ý thức và tự hào về tâm hồn trong trắng, thanh cao của mình. Cô mong người đời đừng chỉ nhìn vào hình dáng bên ngoài mà vội vàng đánh giá con người cô. Bài ca dao là lời tâm tình khiêm nhường với nội dung chủ yếu là nhu cầu muốn được người khác hiểu mình, hiểu được phẩm chất cao đẹp, trong trắng của mình, tương tự như bài ca dao:

Em như cây quế giữa rùng,

Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay.

Khác với hai bài trước, bài ca dao số 3 thể hiện sắc thái than thân rõ ràng hơn cả. Hình ảnh so sánh nổi bật trong bài là giếng nước – một hình ảnh vô cùng quen thuộc với làng quê xưa. Nhưng giếng nước ngọt, nước trong mát lành lại ở “giữa đàng”, nơi mà người qua kẻ lại tấp nập. Và làm sao có thể biết được trong số ấy ai là “người khôn” ai là “kẻ phàm”, mà cho dù có biết được thì “giếng giữa đàng” cũng không thể lựa chọn người dùng nước giếng. Người có lòng thanh nhã thì dùng nước giếng để rửa mặt, kẻ phàm tục lại ngang nhiên lấy nước để rửa chân. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho số phận người con gái khi cất bước đi lấy chồng. Nếu may mắn, họ sẽ lấy được người chồng biết yêu thương và sẽ là bất hạnh nếu lấy phải một người chồng không biết yêu thương, trân trọng giá trị của mình. Nỗi khổ đau hay hạnh phúc của người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào người chồng, giống như giá trị của “giếng giữa đàng” không được quyết định bởi chất lượng của nước mà bởi thái độ của người dùng nước.

Cả ba bài ca dao đều thuộc chùm ca dao than thân nhưng mỗi bài lại có cách thể hiện riêng hết sức đặc sắc. Tất cả đều cho ta thấy phẩm chất, số phận và tâm tư của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Thu Thủy (Tổng hợp)

 

Phát biểu cảm nghĩ về ca dao dân ca Những câu hát than thân – Văn mẫu hay lớp 7
Đánh giá bài viết
Loading...

Từ khóa tìm kiếm

LIKE ỦNG HỘ TÁC GIẢ