Kể lại chuyến đi thăm di tích lịch sử – Văn mẫu hay lớp 6

Em hãy kể về một cuộc đi thăm di tích lịch sử – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh

Chuyến đi thăm cố đô Hoa Lư – Ninh Bình vừa qua đã để lại trong em những ấn tượng sâu sắc. Em nhớ mãi cảm xúc háo hức, phấn khởi và ngạc nhiên, thích thú trong chuyến đi ấy.

Loading...

Vào một sáng cuối xuân, đầu hạ, khi bầu trời còn mờ ảo trong buổi bình minh thì đoàn xe tham quan của trường em đã bắt đầu chuyển bánh. Những chiếc xe đáy ắp tiếng cười lướt nhẹ qua cây cầu bắc ngang dòng sông Đáy hiền hoà rồi tiếp tục bon bon trên quốc lộ 1. Xa xa, dãy Non Nước hiện lên thấp thoáng qua màn sương. Chúng em đều cảm thấy hồi hộp vì tuy nghe danh đã lâu nhưng chưa ai được đặt chân tới mảnh đất “cờ lau dẹp loạn” này bao giờ.

Hoa Lư đây rồi! Kinh đô đầu tiên của nước Đại Việt chính là đây. Toàn bộ khu di tích nằm trong một thung lũng, xung quanh bao bọc bởi những dãy núi trùng điệp. Tạo hoá đã khéo sắp đặt cho nơi này một cảnh quan hùng vĩ, trên là núi, dưới là sông, đẹp như một bức tranh sơn thuỷ.

Đến Hoa Lư hôm nay, tuy chúng em không còn được nhìn thấy những cung điện nguy nga, những thành cao hào sâu… nhưng mỗi tấc đất, mỗi ngọn núi nơi đây đều ghi đậm dấu ấn vẻ vang của một thời oai hùng. Nào là núi Cột Cờ cao hơn 200 mét, nơi Đinh Bộ Lĩnh dựng cờ khởi nghĩa. Nào là ngòi Sả Khê chảy qua hang Luồn, là nơi thuỷ quân ta luyện tập hằng ngày. Rồi hang Muối, hang Tiền với những nhũ đá lóng lánh. Phải chăng đây là kho dự trữ lương thực của đạo quân thiện chiến ngày xưa?

Giữa khu di tích Hoa Lư có đền thờ Đinh Tiên Hoàng. Ngôi đền sừng sững mái cong vút, lợp ngói hình vảy cá, rêu xanh đã phủ dày dấu thời gian. Cột dé làm bằng những cây gỗ to, một vòng tay ôm không xuể. Sân đền còn lưu lại dấu tích bệ đặt ngai ngự của nhà vua. Đó là một phiến đá to, bằng phẳng. Các nghệ nhân tài hoa thuở trước đã khéo léo khắc chạm hình rồng bay rất đẹp. Xung quanh là hình con nghê dũng mãnh, hình chim phượng cao quý tượng trưng uy quyền của vua chúa. Chúng em ngắm chiếc sập đá mà thầm khâm phục hoa tay tài hoa của các nghệ nhân thuở trước.

Trong chính cung là tượng Đinh Tiên Hoàng uy nghi ngự trên ngai. Nhà vua mặc áo thêu rồng, đầu đội mũ bình thiên, bàn tay xoè rộng, đặt nhẹ trên gối vẻcương nghị đọng lại ở đôi môi mím chặt, đôi mắt mở to nhìn thẳng. Thắp một nén hương tưởng niệm, lòng em dâng lên niềm cảm phục đối với người đã có công xây dựng Hoa Lư thành kinh đô của nước Đại Việt xưa.

Tạm biệt đền Đinh Tiên Hoàng, chúng em đến thăm đền thờ vua Lê ở phía bên trái khu di tích. Vua Lê vận long bào, đầu đội mũ miện vàng, kiếm đeo ngang lưng trông rất oai nghiêm. Trong khu vực đền thờ còn có bức tượng một phụ nữ gương mặt phúc hậu, đoan trang. Đó là thái hậu Dương Vân Nga, bậc liệt nữ đã ghé vai gánh vác sự nghiệp cả hai triều Đinh – Lê. Những vị được tôn thờ ở đây đều có tài năng kiệt xuất, xứng đáng là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Không đủ thời gian để leo núi nên chúng em đứng trong thung lũng, ngẩng đầu ngắm nhìn bốn phía để cảm nhận rõ thêm vị thế hiểm trở của cố đô. Có bạn đã giở sổ tay, phác nhanh vài nét kí hoạ. Nhiều người lên tiếng bình luận sôi nổi về phong trào cờ lau dẹp loạn thuở nào.

Trời đã xế chiều. Chúng em lưu luyến ra về và nuối tiếc vì chưa kịp bẻ mấy bông lau làm cờ cắm trước đầu xe cho thêm khí thế. Đến thăm Hoa Lư. chúng em được biết thêm một cảnh đẹp và hiểu thêm về lịch sử oai hùng của dân tộc. Chuyến đi tham quan này đã trở thành đề tài của những cuộc trò chuyện sôi nổi trong lớp em suốt những ngày sau đó.

Kể về một chuyến đi tham quan di tích lịch sử – Bài làm 2

Chiến tranh đã đi qua lâu rồi nhưng những chiến tích và di tích lịch sử vẫn còn đấy. Chúng em đã được đến thăm khu chứng tích Sơn Mỹ – một di tích lịch sử của tỉnh Quảng Ngãi, nơi đã để lại trong chúng em những ấn tượng khó quên.

Hôm ấy là một sáng cuối xuân, trời thật đẹp. Đoàn xe tham quan của trường em chuyển bánh. Những chiếc đầy ắp tiếng cười lướt nhẹ qua cây cầu bắc ngang qua sông Trà Khúc. Chúng em đưa mắt xuống dòng sông. Sông dịu hiền như chiếc áo the xanh duyên dáng. Đi hết cây cầu, đoàn xe rẽ xuống hướng đông. Xe vẫn bon bon trên con đường nhựa mịn màng, cảnh vật nơi đây thật đẹp, núi Thiên An uy nghi, trầm mặc hướng ra sông. Sông ôm bóng núi và quyện với mây trời. Nhìn núi Ấn sông Trà, ẹm lại càng tự hào về quê hương Quảng Ngãi – nơi đã ghi dấu ấn của một thời oanh liệt, hào hùng. Chúng em cùng nhau ôn lại lịch sử đấu tranh của người dân nơi đây. Ai cũng muốn đi ngược thời gian để tưởng nhớ những người chiến sĩ đã ra đi từ núi sông này. Dòng suy nghĩ chưa dứt thì đoàn xe tham quan đã đến nơi. Như không hẹn trước tất cả cùng nhau hô to:

– Đến nơi rồi! Đến nơi rồi!

Xe giảm tốc độ và dừng lại, đoàn tham quan lần lượt xuống xe. Lá cờ đỏ sao vàng cắm ở trên đầu xe tung bay trong gió. Chúng em xếp hàng ngay ngắn rồi theo cô hướng dẫn viên tiến vào trong khu di tích. Cô hướng dẫn viên đưa chúng em đi thăm nhà lưu niệm. Những hiện vật vẫn còn đó, được lưu giữ rất cẩn thận. Sau vụ thảm sát ngày 16-3-1968 tại đây, 504 người dân vô tội đã ra đi, trong đó phần lớn là cụ già, phụ nữ và trẻ em. Cô hướng dẫn viên còn đưa chúng em ra thắp hương tại tượng đài – hình ảnh một người mẹ đang che chở cho nhũng đứa con khi cái chết cận kề. Ôi! Thật thương tâm: Chúng em không sao kìm được xúc động, căm thù. Em thầm nghĩ: Đây là một chứng tích phơi bày tội ác man rợ của quân hiếu chiến, cướp nước. Đấy là nơi tưởng niệm đồng bào vô tội đã bị tàn sát dã man trong chiến tranh. Chúng em đi thăm những căn hầm, những chiến hào đã từng che bom chắn đạn, thăm con mương cạn mà quân đội Mỹ đã dồn phụ nữ và trẻ em vào đó để xả súng bắn. Nghe kể lại, tất cả chúng em đều ghê rợn, kinh hoàng. Tận mắt chứng kiến những bức ảnh về vụ thảm sát do một người Mỹ có lương tâm chụp và công bố lá bằng chứng quan trọng, buộc tòa án Mỹ phải đem vụ thảm sát Sơn Mỹ ra xét xử.

Ba giờ đồng hồ trôi qua đoàn tham quan đã thăm viếng hết khu chứng tích, đã chứng kiến những cảnh thương tâm. Ai cũng muốn nói lên lời giã từ quá khứ đau thương, phẫn nộ chiến tranh và ước vọng hòa bình. Chúng em thành kính thắp những nén hương tưởng niệm trước lúc ra về.

Tạm biệt khu di tích Sơn Mỹ, chúng em ai nấy đều hiểu thêm lịch sử về quê hương, đất nước, con người. Chúng em mong sao thế giới này mãi mãi hòa bình.

Kể về một cuộc đi thăm di tích lịch sử – Bài làm 3

Đầu tháng vừa qua, trường em tổ chức cho học sinh di thăm khu di tích Tháp Chàm ở Mỹ Sơn. Đó là chuyến đi rất vui và thú vị.

Sáu giờ sáng, tất cả các bạn học sinh khối sáu đã có mặt đông đủ tại trường cùng với các thầy cô chủ nhiệm của mỗi lớp. Cùng tham dự chuyến tham quan còn có các thầy cô trong Ban Giám hiệu. Chỉ cần năm phút ra lệnh, sáu chiếc xe ca to đùng đã đầy ắp các bạn học sinh, ai nấy đều hớn hở, vui vẻ, khuôn mặt không dấu được sự háo hức hân hoan.

Con đường đi thật dài, từ Thành phố Đà Nẵng chúng em phải vượt gần bảy chục km mới tới khu di tích Mỹ Sơn. Khi đến chân núi khu tháp mọi người phải xuống đi xe chuyên dụng của khu di tích. Loại xe ca quá to, đường bé, dốc không lên được. Chúng em chia thành từng nhóm nhỏ, mỗi nhóm mười người lên một xe, con đường đi lên thật ngoằn ngoèo, len dưới rừng cây, hai bên là vách núi, gió thổi dào dạt. Cách khu di tích không hơn một cây số nữa chúng em phải xuống đi bộ vì xe không thể lên tới nơi. Ấn tượng đầu tiên của em là khi đặt chân tới Mỹ Sơn là sự hoang tàn đổ nát thảm nghiêng, hoang vắng. Những đền thờ, những tượng đài những tảng đá phủ đầy phong rêu nằm im lìm trong không gian u tịch.

Lúc nãy trên đường vào, đứa nào đứa nấy cười đùa râm ran thế mà giờ đây trở nên im lặng. Giọng cô thuyết minh trầm trầm giới thiệu.

Đây là khu đền thờ của người Chăm ngày trước, nó đã có mặt cách đây khoảng 7 thế kỉ. Qua biến động của thời gian, nó đã bị hoang phế và đổ nát đi gần hết, nay chỉ còn lại một số ít, nhưng chúng ta vẫn thấy rằng đây là những công trình kiến trúc vô cùng độc đáo, mà người Chăm đã tạo dựng lên.

Những đền thờ ở đây được xây dựng rất lạ, theo hình chóp dưới rộng và trên nhỏ dần, nhỏ dần lại đến lúc kín bưng. Mỗi đền thờ diện tích chỉ khoảng chừng hai mươi mét vuông được xây bằng gạch. Điều độc đáo là không biết người xưa đã dùng chất liệu gì để cho các viên gạch chồng xếp lên nhau, mà ngày nay ta nhìn vào không thể phát hiện ra được, ở những nơi đổ nát người ta đã trùng tu lại, nhưng xem ra kĩ thuật hiện đại của người nay không bằng kĩ thuật thô sơ của người xưa. Những lớp gạch trùng tu chỉ sau vài ba tháng đã trở nên hoen ố rêu phong, còn những lớp gạch cách đây cả gần chục thế kỉ thì vẫn cứ đỏ au như mới.

Chúng em thơ thẩn đi khắp mọi nơi, những nơi các nhà khảo cổ đang khai quật và trùng tu lại chỉ đang đứng ngoài chiêm ngưỡng. Đến lúc ra về, cả đoàn ghé vào khu hội trường để thưởng thức những điệu múa, bài hát của dân tộc Chăm, thật sinh động và hấp dẫn.

Chia tay với Mỹ Sơn, lòng em bồi hồi nhớ về một thời quá khứ, tự hào về những gì mà cha ông đã tạo dựng lên. Khu di tích Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Khi nó được trùng tu xong sẽ là một địa điểm tham quan hấp dẫn của khách tham quan trong nước và nước ngoài. Xe đã chạy xa em còn ngoái đầu nhìn lại những chiếc tháp khuất dần, khuất dần sau những rặng cây.

Mỹ Sơn ơi! Hẹn ngày gặp lại.

Kể về một cuộc đi thăm di tích lịch sử – Bài làm 4

Mùa hè năm nay, nhân dịp kỉ niệm 35 nặm giải phóng miền Nam, cơ quan bố có tổ chức một tua du lịch xuyên Việt. Điểm đến là Thành phố Hồ Chí Minh, nơi từng được coi là hòn ngọc Viễn Đông. Tôi được bố cho đi cùng.

Cho đến lúc này, kỉ niệm về lần tham quan đó vẫn còn nguyên vẹn trong kí ức của tôi. Chuyến đi thật thú vị. Đoàn đã đến Thảo Gầm Viên, khu đù lịch Suối Tiên, khách sạn Ca-ra-ven – nơi diễn ra những trận đánh lừng danh của các chiến sĩ biệt động Sài Gòn,… Đặc biệt nhất là được tham quan dinh Độc lập, một di tích lịch sử nổi tiếng của đất nước, kể từ ngày giải phóng miền Nam 30 – 4 – 1975;

Suốt hành trình, tôi có tâm trạng háo hức, nôn nóng. Trong tưởng tượng của tôi dinh Độc lập cũng bí hiểm hệt như Tử Cấm Thành trong phim truyện Trung Quốc, hay cái gì đó đại loại như dinh Bảo Đại ở Đà Lạt vậy. Mong mỏi mãi rồi cuối cùng, đoàn chúng tôi cũng đã có mặt ở nơi đó. Trong cái nắng phương Nam óng vàng rực rỡ, Dinh Độc lập thật tráng lệ.

Theo lời giới thiệu của hướng dẫn viên du lịch trước 1945, tiền thân của dinh Độc lập là dinh Nô-rô-đôm, được xây dựng từ năm 1868, sau đó, nó lần lượt mang tên dinh Thống đốc, dinh Toàn quyền. Cho đến năm 1955, Ngô Đình Diệm đã đổi thành dinh Độc lập. Ngày 01 tháng 7 năm 1962, dinh mới được khởi công xây dựng do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người đoạt giải tế Khôi nguyên La Mã, thiết kế. Phong cách kiến trúc có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại; vừa theo thuật phong thuỷ và kiến trúc phương Đông, vừa có sự tiếp nhận những tinh hoa kiến trúc phương Tây hiện đại. Do được đặt ở vị trí đầu rồng nên dinh Độc lập còn có tên gọi là Phủ Đầu rồng. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, dinh mang tên mới: dinh Thống nhất.

Dinh toạ lạc trong một khuôn viên rộng hàng chục hecta rợp mát bóng cây. Diện tích sử dụng của dinh Độc lập là 20.000 m2 với hơn 100 phòng được bày trí theo các phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng. Trong đó bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng, phòng làm việc của Tổng thống và Phó Tổng thống, phòng trình quốc thư, phòng đại yến… Mặt tiền của dinh được trang trí cách điệu các đốt mành trúc theo phong cách kiến trúc Á Đông, vừa thanh nhặn, vừa chắc chắn.Trước cửa dinh có thảm cỏ xanh mượt hình ô van trông thật mát mắt.

Nơi khuôn viên trước dinh có chiếc máy bay F5E do trung úy phi công Nguyễn Thành Trung điều khiển đã dội bom xuống dinh Độc lập vào 8 giờ sáng ngày 8 tháng 4 năm 1975. Sự kiện này đã khiến cho Tổng thống Thiệu lúc ấy vô cùng hoảng loạn. Ớ đó còn trưng bày hai chiếc xe tăng mang số hiệu 843 và số hiệu 390 thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 203, Quân đoàn 2 anh hùng. Lúc 10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử, chiếc xe tăng 843 đã húc nghiêng cổng phụ của dinh Độc lập. Tiếp đó, xe tăng 390 húc  tung cổng chính, tiến thẳng vào dinh. 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, lá cờ cách mạng đã tung bay trên nóc đinh Độc lập. Tổng thống Dương Văn Minh, người thay thế Nguyễn Văn Thiệu, đã đầu hàng vô điều kiện. Sự kiện này đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ ngụy quyền Sài Gòn, kết thúc 30 năm chiến tranh, mở ra kỉ nguyên độc lập thống nhất cho Tổ quốc. Ai nấy đều chụp ảnh kỉ niệm bên hại chiếc xe tăng lịch sử. Tôi còn táo bạo leo lên tháp pháo của chiếc xe tăng 843 lừng tiếng để chụp ảnh! (Chắc là thấy tôi còn nhỏ, không biết lệnh cấm nên các chú trong khu di tích đã miễn tội, chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng!)

Mỗi hiện vật trong dinh đã làm sống lại không khí rực lửa của cuộc chiến tranh giải phóng đất nước, giúp mọi người được hoà nhập vào thời khắc thiêng liêng của lịch sử và không khỏi tự hào trước những chiến công vang dội của các chiến sĩ quân Giải phóng anh hùng.

Sau khi tham quan hầu hết các phòng ở tầng một, tầng hai, tầng ba, xem dấu vết cuộc oanh kích , bằng máỵ bay của trung úy Nguyễn Thành Trung trên sân thượng củạ dinh, chúng tôi xuống hầm ngầm cố thủ nằm sâu trong lòng đất của Tổng thống Thiệu. Tường hầm được thiết kế bằng thép, dày tới 1,2 mét, chống được bom tấn. Xem ra nhà thiết kế đã tính đến những phương án xấu nhất có thể xảy ra trong chiến tranh. Nhưng điều đó cũng không thể nào cứu vãn được sự sụp đổ tất yếu của chính quyền Sài Gòn cũ. Ngắm nhìn các hiện vật, tôi tưởng tượng ra những ngày Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu mặc sức làm mưa làm gió, hình dung sự thảm bại của chế độ Mĩ – Ngụy trước bão táp của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Tôi hiểu rằng chiến thắng của dân tộc là chiến thắng của khát vọng độc lập tự do, của lòng dũng cảm, trí thông minh, sáng tạo…

Rời dinh Độc lập trong cảm giác bâng khuâng, bồi hồi, tôi biết rằng phải rất lâu sau này mới có dịp trở lại nơi đây. Có thể, theo thời gian, mọi thứ sẽ đổi thay. Nhưng những gì tội dã thấy, đã nghe và cảm nhận sẽ còn lại trong tâm tưởng của tôi mãi mãi mới mẻ, rực rỡ như sắc nắng của Sài Gòn buổi trưa hè ấy!

Thu Thủy (Tổng hợp)

 

Kể lại chuyến đi thăm di tích lịch sử – Văn mẫu hay lớp 6
2.8 (56.67%) 6 đánh giá
Loading...

Từ khóa tìm kiếm

LIKE ỦNG HỘ TÁC GIẢ